Trình bày khái niệm, cấu thành và phân loại của vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
1. Vi phạm pháp luật là gì?
Vi phạm pháp luật (tiếng Anh: Violate) là một hiện tượng nguy hiểm, tác động tiêu cực và làm mất ổn định xã hội. Tính nguy hiểm thể hiện ở chỗ nó xâm hại tới lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, xã hội. Vậy vi phạm pháp luật là gì?
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý xâm hại tới quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
a. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội
Vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội… (các chủ thể của pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi có biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động của các chủ thể pháp luật.
b. Trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ
Những hành vi hợp pháp hay hành vi trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái với quy tắc tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo… mà không trái pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
c. Có lỗi của chủ thể
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là xác định lỗi (trạng thái tâm lý) của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật đó.
Lỗi là yếu tố của quan hệ thể hiện thể hiện thái độ của chủ thể đối với hanhf vi trái pháp luật của mình. Những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng không vô ý thực hiện) thì không bị coi là vi phạm pháp luật. tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật, nhưng ngược lại, không phải tất cả hành vi trái pháp luật đều bị coil à vi phạm pháp luật.
d. Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể do nhà nước quy định. Pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp lý cho những người đã đạt được độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và có tự do ý chí. Nhưngx hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện chúng các chủ thể không có hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
3. Cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là toàn bộ những yếu tố, những bộ phận làm thành một vi phạm pháp luật cụ thể, bao gồm mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: những biểu hiện ra bên ngoài TGKQ của vi phạm pháp luật: những biểu hiện ra bên ngoài TGKQ của vi phạm pháp luật
- Khoa học pháp lý phân biệt 2 hình thức biểu hiện của hành vi trái pháp luật là hành đông và không hành động (hành động: chủ thể có hành vi bị pháp luật cấm ; không hành động: chủ thể ko thực hiện sự bắt buộc của pháp luật).
- Sự thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội được gọi là hậu quả của vi phạm pháp luật. Biểu hiện: sự biến đổi tình trạng bt của các quan hệ xã hội bị xâm hại, có thể là thiệt hại cụ thể như tài sản, tính mạng hoặc trừu tượng như nhân phẩm, danh dự… => thiệt hại cho xã hội là cơ sở đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật
- Giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả nó gây ra có mối quan hệ nhân quả.
b. Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
- Cá nhân: con người cụ thể, năng lực trách nhiệm pháp lý xác định trên cơ sở tuổi, khả năng nhận thức
- Tổ chức: nhóm người có liên kết chặt chẽ, thành lập hoạt động nhằm đạt mục tiêu nhất định
=> phân biệt: tổ chức là chủ thể vi phạm pháp luật phải là tổ chức hợp pháp >< vi phạm pháp luật có tổ chức: một nhóm người liên kết với nhau cùng vi phạm pháp luật, sự tồn tại của họ là bất hợp pháp
c. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: những biểu hiện tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp luật
- Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật: thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể. Chủ thể bị coi là có thái độ tiêu cực đối với xã hội khi họ có ý thức phủ định lợi ích xã hội. Dựa vào thái độ có 2 loại lỗi
– Lỗi cố ý: chủ thể có ý thức để xảy ra thiệt hại cho xã hội + cố ý trực tiếp: mong muốn hậu quả xảy ra
– Cố ý gián tiếp: mặc hậu quả xảy ra
=> khác biệt rõ nhất là ở thái độ của người vi phạm đối với hậu quả do hành vi họ gây ra
– Lỗi vô ý: chủ thể ko chủ ý gây thiệt hại + vô ý do quá tự tin: cân nhắc và loại trừ khả năng gây hậu quả
– Vô ý do cẩu thả: chủ thể có nghĩa vụ tuân theo quy tắc nhất định nhưng do cẩu thả nên đã ko thực hiện gây nên thiệt hại
- Động cơ vi phạm: là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
=> Phân biệt : động cơ hành vi nói chung và động cơ vi phạm pháp luật
– Theo tâm lý học, hành vi của con người trong trạng thái tâm lý bt được thúc đẩy bởi động cơ nào đó do nhu cầu, xúc cảm, tình cảm và sự tác động của TG bên ngoài
– Vi phạm pháp luật chỉ có yếu tố động cơ khi và chỉ khi người vi phạm nhận thức được hành vi của họ là vi phạm pháp luật => do đó chỉ có những vi phạm có lỗi cố ý ms có yếu tố động cơ
- Mục đích vi phạm: là kết quả trong ý thức mà chủ thể vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. => chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý trực tiếp ms có yếu tố mục đích
=> Phân biệt:
– Mục đích của vi phạm pháp luật và mục đích của hành vi nói chung
– Mục đích của vi phạm pháp luật là kết quả trong ý thức >< hậu quả của vi phạm pháp luật : kết quả thực tế
- Khách thể vi phạm pháp luật: là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng vị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
– Một hành vi vi phạm pháp luật có thể xâm phạm đồng thời một hoặc nhiều qhệ xã hội hay một hành vi vi phạm có thể có nhiều khách thể, các khách thể có tầm quan trọng khác nhau trong đời sống xã hội => tính chất của khách thể là cơ sở để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật
=> Phân biệt : khách thể vi phạm pháp luật và đối tượng của vi phạm pháp luật. Đối tượng của vi phạm pháp luật: là những sự vật hiện tượng cụ thể mà khi tác động lên nó, người vi phạm gây thiệt hại cho các qhệ xã hội được pháp luật bảo vệ (xâm hại các qh xã hội, vi phạm pháp luật tác động đến từng bộ phận cấu thành nên qhệ xã hội đó => bộ phận đó là đối tượng vi phạm pháp luật).
4. Phân loại vi phạm pháp luật
Phân loại vi phạm pháp luật là cơ sở để xác định loại trách nhiệm pháp lý thích hợp.
- Vi phạm hình sự (tội phạm): tính nguy hiểm cho xã hội ở mức cao nhất, xâm phạm những quan hệ xã hội quan trọng nhất trong hệ thống quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
- Vi phạm hành chính: tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm.
- Vi phạm kỷ luật Nhà nước: là vi phạm trong trường hợp chủ thể ko thực hiện hoặc thực hiện ko đầy đủ nghĩa vụ của họ trong một quan hệ pháp luật được xác lập trong nội bộ cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lý Nhà nước => phân biệt : vi phạm kỷ luật Nhà nước và kỷ luật của các tổ chức khác trong xã hội bởi : mỗi tổ chức đều có kỷ luật của nó, đó là những quy tắc xử sự được đặt ra cho các thành viên của tổ chức nhằm đảm bảo trật tự trong hoạt động tổ chức đó.
- Vi phạm dân sự: là vi phạm pháp luật trong trường hợp chủ thể ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ nghĩa vụ của họ trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể.
Link bài viết: https://havip.com.vn/vi-pham-phap-luat-la-gi/
Link trang chủ: https://havip.com.vn/