Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, tác giả – người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả: là người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm
- Chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả: Là những người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để cùng sáng tạo ra tác phẩm
- Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế: là tổ chức, cá nhân thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền: là tổ chức, cá nhân được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ các quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm khuyết danh được hưởng quyền của chủ sở hữu cho đến khi danh tính tác giả được xác định
- Chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước: Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm:
+ Tác phẩm khuyết danh
+ Tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản
+ Tác phảm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được nêu trên gồm tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.